KÍNH HIẾU

Kính Hiếu Cha Mẹ

(Trích dẫn trong tác phẩm Tìm Hiểu Vic Đời Đã Qua 1 của Nguyễn-Phú-Thứ)
Như đã biết, nếu không có cha mẹ sanh thành dưỡng dục, thì không có chúng ta ở trên quả đất nầy. Quả thật vậy : 

Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ Mẹ kính Cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con...
Ngoài ra, trong kinh Tâm Địa Quán, đức Phật cũng đã dạy về công ơn cha mẹ như sau : 
Ân cha lành cao như núi Thái,
Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi,
Dù cho dâng trọn một đời,
Cũng không trả hết ân người sanh ta.

Xuyên qua những lời dạy ở trên, tuy đơn sơ ngắn gọn, nhưng nó vô cùng trân quý, bởi bổn phận làm con phải biết hiếu kính với cha mẹ đã được thấm nhuần từ xa xưa của tổ tiên ông bà để lại cho ngày hôm nay. Hơn nữa, nếu xét về Dương Âm tức Trời Đất, thì người Cha tức Dương và người Mẹ tức Âm, chẳng khác nào ban ngày và ban đêm hay nói khác đi, nếu không có Thiên Địa tức Trời Đất, thì không thể tạo nên chúng sanh tức con người được, cho nên nếu không có "Cha sanh, Mẹ dưỡng" thì không thể có chúng ta. Bởi vì : 

Có Cha, có Mẹ thì hơn,
Không Cha, không Mẹ như đờn đứt dây. (*)

(*) Ở đây ngụ ý nói là khi chúng ta sanh ra rồi, mà mất cha lẫn mẹ thì khốn khổ vô cùng. Người cha tuy không mang nặng đẻ đau như người mẹ, kể từ cấn thai cho đến nở nhụy khai hoa (sanh nở), mẹ phải mang nặng cái bào thai suốt trên chín tháng nặng nhọc, rồi bị hành thai, ăn uống vô cùng khó khăn, làm cho sức khoẻ của mẹ càng ngày tiều tụy, để rồi đúng ngày sanh nở phải đẻ đau. Nếu việc sanh đẻ suông sẻ, bình thường là tốt đẹp, thì xem như "Mẹ tròn Con vuông" (thành ngữ). Nếu như sanh đẻ khó khăn, đôi khi cũng nguy hiểm đến tánh mạng của mẹ, thì không khác gì người mẹ đi biển một mình, bởi đúng với câu : 

Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình (tục ngữ).

Sau khi sanh nở xong, mẹ cũng phải cận kề để lo cho con liên tục trong ba năm nhũ bộ, rồi cùng cha lo từ tấm t
ã, từ manh quần tấm áo, từ giấc ngủ cho đến khi đau ốm. Trái lại, nếu không có cha tạo thành cũng như lao tâm, lao lực, nhọc trí lo lắng cho con từ tinh thần đến vật chất để có sự sống và còn tiếp tay với mẹ dạy dỗ con từ tấm bé cho đến khi khôn lớn, thì không có con ngày hôm nay. Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng ba, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya, nhất là sự lo lắng lúc mọc răng, ấm đầu phải chạy lo từng liều thuốc hay giọt sữa...Để rồi, khi con khôn lớn, việc lo toan đó lại càng chồng chất nhiều hơn nữa và mong sao con sau này sẽ nên danh nên phận, hữu dụng với họ hàng, làng nước. Ngoài ra, trong thời kỳ mẹ mang thai dạ chửa, cha lúc nào cũng cận kề mẹ, để săn sóc, giúp đỡ mẹ từ miếng ăn, bởi vì mẹ hết thèm món này đến món nọ, nhất là những trái cây có vị chua hoặc vị ngọt hay một nồi chè thật ngon ngọt cũng nên, thay vì ăn cơm bình thường như mọi ngày. Khi con lọt lòng mẹ, cha cũng phải đỡ đần mẹ để pha từng bình sữa, giặt giũ khi mẹ còn non yếu sau khi sanh nở. Khi con được đầy tháng, cha cũng đứng ra lo liệu lễ vật nhang đèn để cúng đầy tháng cho con, cha khấn vái cầu xin mụ bà và các vị thần linh phù hộ cho con mau ăn chóng lớn, có lẽ đó là lần đầu tiên trọng đại trong đời khi cha mẹ có đứa con đầu lòng. Khi con được hai ba tháng, nằm ngữa hươ tay hươ chân, mở mắt nhìn ngơ ngác, xoay đầu sang phải, sang trái, rồi nở nụ cười vô tư hồn nhiên, nhưng làm cho cả nhà vui mừng, quả thật nụ cười của con làm cho những nụ cười rạng rỡ của các khuôn mặt người thân thương trong gia đình và xóa mờ những nếp nhăn trên trán của ông bà, bởi vì con đã biết nở nụ cười đầu đời, để rồi thời gian cứ trôi qua, con lần lượt biết lật, biết bò, biết ngồi, biết vịn tay cha mẹ đứng lên được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích người thân trong gia đình vang lên rộn ràng đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha mẹ. Hơn nữa, cha cũng thường được phân công đút cho con những miếng ăn đầu tiên... Ôi! làm sao kể cho hết những công lao của cha dành cho con. Mỗi gia đình, mỗi cặp vợ chồng trẻ mới vừa được làm cha mẹ, sanh được đứa con đầu lòng, thì lúc nào cha mẹ cũng dành hết tình thương cho con, nhứt là cha sẵn sàng làm trò hề để cho con vui hoặc làm thân trâu ngựa để cho con cỡi, miễn sao con vui là được... Đó chính là tình thương của cha dành cho con thật vô bờ bến vậy. Khi con đến tuổi đi học vỡ lòng, cha mẹ lo lắng đưa đón cho con đến trường, thật đúng với câu : "Cha đưa, Mẹ đón" (thành ngữ). và hằng đêm cha lại dạy dỗ từng chữ để con học để nên người sau này. Do vậy, công cha đối với con cũng vô cùng to lớn như mẹ vậy, nào là lo ăn mặc, cho con ăn học, dạy dỗ cho con... bởi vì, chỉ có cha con mới sợ đòn, mà chịu nghe lời dạy bảo hơn mẹ, bởi tục ngữ : 

Mẹ đánh một trăm (*)
Không bằng cha hăm một tiếng
(*) một trăm là để chỉ 100 roi.

Công Cha như thế đó, còn công Mẹ như thế nào?

Như chúng ta đều biết, sau khi con đã chào đời, mẹ lúc nào cũng ở cận kề con hơn cha, để cho con bú với bầu sữa mẹ mỗi khi con khát sữa, (Con không khóc, mẹ không cho con bú), trong suốt ba năm nhũ bộ, mỗi lần con mọc răng, ngứa nướu con thường cắn vú mẹ, nhưng người mẹ vẫn cam chịu đau và lại mừng thầm nữa, bởi vì, biết con đã mọc răng sữa, cho nên người mẹ mới mắng yêu rằng : "Con đã mọc răng, nói năng gì nữa" (tục ngữ). Khi con được vài tháng, mẹ bắt đầu nấu cháo hay nhai cơm cho nhuyễn với cá hay thịt, với nước miếng của mẹ làm cho dễ tiêu, rồi mớm cơm vào miệng cho con ăn. Đó là phương pháp ngày xưa, phương pháp này rất tiện và có cả tình thương của mẹ dành cho đứa con nữa, mặc dù thấy không hạp vệ sanh như ngày nay... Do những công lao của mẹ như trên, đã được trong dân gian truyền khẩu qua ca dao, tục ngữ như sau : 

Con mẹ có thương mẹ thay,
Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau.
Cha mẹ sanh thành tạo hóa,
Nhai cơm, lựa cá, nhai cá lựa xương.
Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng biển (ca dao)

Hay là : 

Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.

hoặc là :

Nhớ ơn chín chữ (**) cù lao,
Ba năm nh
ũ bộ biết bao nhiêu tình (***).

(**) Trong Kinh Thi của Khổng Tử đã nói đến 9 điểm, gọi là 9 chữ cù lao dành cho người mẹ. Đó lả : Sinh (sinh nở), Cúc (nâng đỡ), Phủ (vỗ về), Dục (dạy dỗ), Súc (cho bú), Trưởng (nuôi lớn), Cố (trong nôm), Phục (nuông chiều), Phúc (che chở) .
(***) Tình ở đây là tình mẹ dành cho con thật bao la, bát ngát vô tận, mỗi lần mẹ cất tiếng ru con ngủ, thì mẹ cũng nói lên nỗi niềm ấy như sau : 

Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi,
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học, mẹ đi trường đời.

hay là :

Cha mẹ ngoảnh đi, thì con dại,
Cha mẹ ngoảnh lại, thì con khôn. (tục ngữ)

Và mẹ cũng hy sanh, dành nơi khô ráo cho con nằm ngủ, mỗi khi con đái dầm hoặc những đêm vào mùa thu con không ngủ được, vì trái nắng trở trời, mẹ phải thức thâu đêm để đưa võng ru cho con ngủ, bởi có câu :
Gió mùa thu mẹ mẹ ru con ngủ,
Năm canh chày thức đủ năm canh.

cho đến khi con lên ba tuổi, thì cha mẹ mới đỡ khổ. Quả đúng vậy, bởi vì :
Ai rằng công mẹ như non,
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn.

Khi con khôn lớn, cha mẹ còn lo dựng vợ gả chồng (khi nhắc đến Đám Cưới, thông thường trong dân gian biểu tượng Rồng (Long) và Phượng (Phụng) để chỉ Chồng và Vợ hoặc là trong các nhà hàng ngày nay thường đặt tên Long Phụng. Bởi do tứ linh Long, Lân, Quy, Phụng mà ra. Nếu phân tích tứ linh së thấy : Long (dương), Lân (âm), Quy (dương), Phụng (âm), cho nên dùng tên Long Phụng cho ngắn gọn, để chỉ sự hạnh phúc bởi có trời (dương) và đất (âm) tức có chồng có vợ và trong dân gian thường chúc Đám Cưới : <Long Phụng hoà minh, sắc cầm hão hợp>).

, nhiều khi còn phải cực khổ với đàn cháu nhỏ cho đến ngày theo ông bà, cho nên bổn phận làm con phải biết kính hiếu cha mẹ, đúng như câu ca dao dưới đây :
Công cha ba năm tình thâm lai láng,

Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Biết lấy chi đền đáp khó khăn,
Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.

Công ơn cha mẹ sâu dày như thế đó, nói làm sao hết được, chỉ khi nào : 

Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ (ca dao).

Nhưng xét cho kỹ, công lao của cha mẹ đều ngang nhau, cho nên nhân mùa Vu Lan, thiết nghĩ bổn phận làm con, không những kính hiếu dành cho người mẹ bằng hoa hồng hay hoa trắng, mà phải lẫn người cha nữa. Bởi vì :
Con có mẹ như măng ấp bẹ (thành ngữ) 

hay là : 

Con có cha như nhà có nóc (tục ngữ) 
hoặc là : 

Còn cha gót đỏ như son,
Đến khi cha chết, gót con đen sì.
hay là :
Còn cha nhiều kẻ yêu vì,
Một mai cha chết, ai thì yêu con (ca dao).
Hơn nữa,
Con có cha em đẻ,
Không ai ở lỗ nẻ mà lên (tục ngữ) ...v.v

Ngày nay, có nhiều chùa tổ chức lễ Vu Lan không những chỉ dành cho mẹ mà lẫn cha như : cài bông hồng cho những người nào còn mẹ hay cài bông trắng cho những người đã mất mẹ, còn đối với cha thì cài nơ màu xanh cho những người nào còn cha hay cài nơ trắng cho những người đã mất cha. Đây là một hành động vô cùng công bằng, bởi vì hằng năm đến mùa Vua Lan, cha lẫn mẹ đều được các con kính hiếu. Việc kính trọng và báo hiếu dành cho song thân, thiết nghĩ không chỉ về vật chất là đủ, mà còn tinh thần nữa. Bởi vì, nếu những người con lâm vào tình trạng nghèo khó, không đủ sinh sống hằng ngày, thì lấy đâu mua quà cáp để kính dâng cho cha mẹ những món ăn ngon vật lạ, mà chỉ có những bửa cơm đạm bạc và lo lắng sức khỏe cha mẹ khi tuổi về chiều hoặc làm cho cha mẹ vui, bởi những lời hỏi thăm hay những hành động không làm cho cha mẹ buồn lòng, cũng là việc kính hiếu vậy. 

Trái lại, những người con giàu có thì việc phụng dưỡng cha mẹ già về vật chất thì không khó khăn cho mấy, nhưng lại cho rằng : nay con đã lớn khôn, giàu có, khỏe mạnh hơn cha mẹ, xem cha mẹ không ra gì, có những hành động, lời nói vô lễ làm cho cha mẹ buồn phiền, thì việc kính hiếu của những người con đó sẽ không được trọn vẹn, đôi khi đưa đến bất kính hiếu là khác, bởi vì, chúng ta dù có giàu có, có lớn xác thì chúng ta cũng là con của cha mẹ, thì bổn phận làm con vẫn là kính hiếu cha mẹ suốt đời không bao giờ thay đổi, có như vậy việc phụng dưỡng cha mẹ mới được kính hiếu trọn vẹn.

Hơn nữa, chúng ta đã thấy việc làm của Đức Phật đáng cho chúng ta suy nghï, vì Ngài đã có ngai vàng, điện các, ngọc ngà, chu báu, vợ đẹp, con ngoan...thế mà Ngài đã hoan hỉ xuất gia từ bỏ tất cả, để ngày nay, Ngài đã đuơc cả trên thế giới kính trọng. Bởi vi, chúng ta nên nhớ rằng : <Dù chúng ta có giàu sang hay nghèo hèn đến đâu, khi chết không thể mang hết được>, cho nên chúng ta phải biết thương người như thể thương thân, huống chi kính hiếu cha mẹ.

Việc kính hiếu đối với cha mẹ, không những thờ cha kính mẹ ngang nhau, bởi vì cha mẹ là người sanh thành dưỡng dục, mỗi người đều có công và trách nhiệm để lo lắng, quả đúng với câu : 

Mẹ dạy thì con khéo,
Cha dạy thì con khôn (tục ngữ).
Đối với mẹ, chúng ta phải có bổn phận xem người mẹ như :
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp mật, như đường mía lau.

Hoặc là : Mẹ già như chuối chín cây,
Gió đưa trái rụng con rày mồ côi.

(Quả đúng vậy, bởi vì khi Mẹ già có khác gì <Chuối chín cây>, khi bị một ngọn gió Mẹ sẽ bị đau bịnh rồi chết, hơn nữa nếu nhà nào có trồng chuối nhiều, sẽ thấy buồng chuối chín cây, vì không đốn kịp, mỗi khi có ngọn gió, các trái chuối lần lượt rơi rớt, có khác gì thân Mẹ già bị ngọn gió độc vậy. Đây là, hai câu tục-ngữ rất xác-thực trong dân gian VN, đã tài tình ví tuổi già yếu đuối của Mẹ không khác Chuối chín cây).

Mẹ già ở túp lều tranh.
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con (cao dao).

hay là :
Muốn cho gần mẹ gần cha,
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền

Hoặc, nếu chúng ta ở gần chỉ còn có mẹ, thì phải đem món ngon vật lạ cho mẹ, ví như sau :
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già,

hay là :
Đói lòng ăn đọt Chà Là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Hoặc, nếu chúng ta ở xa cha mẹ, người con hiếu kính phải gởi về quà cáp cho cha mẹ, ví như sau :
Ai Về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kinh thầy.
hay là :
Ai về tôi gởi đôi giày,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.

Nếu một khi chúng ta bị lỗi với người mẹ, thì chỉ than như sau :
Me ơi! Đừng đánh con hoài,
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.
Mẹ ơi! đừng đánh con hoài,
Để con bắt cá, hái xoài mẹ ăn (ca dao).
Để rồi, khi những người con gái của mẹ đến tuổi lập gia đình, nhưng vì thương cha mẹ già, các em còn thơ dại nên rất muốn ở gần, nên thốt ra những lời như sau :
Mẹ ơi! Đừng gả con xa,
chim kêu vượn hú biết nhà mẹ đâu.
Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, lấy chồng xa.
Một mai cha yếu mẹ già,
Chén cơm ai xới, kỷ trà ai dâng (ca dao).

Thời xa xưa, cha mẹ thường có trọn quyền định đoạt mọi việc lớn nhỏ cho con cái, kể cả việc dựng vợ gả chồng. Hể cha mẹ chọn đâu thì con cái phải nghe theo, vì có câu : Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó (tục ngữ). Cho nên, có những anh chàng thất vọng vì không được cha mẹ của nàng chấp nhận, đã than thở như sau : 

Cha mẹ biểu ưng, em đừng nói phải,
Em nỡ lòng nào bạc đãi bỏ anh (ca dao).
Thế nhưng, nàng lại một mực từ chối việc bỏ nhà theo trai, nên mới thốt ra câu :
Cha sanh mẹ đẻ, không lẽ theo anh,
Xấu cha, xấu mẹ đôi mình tốt chi...
Cha mẹ tôi già như đèn cháy nhấp nhem,
Bổn phận tôi gái, mấy em còn khờ...(ca dao) .
Những lời của người con gái thốt lên ở trên đối với người yêu quả thật đáng khen vì đã làm tròn bổn phận con cái cũng như giữ gì được danh giá cho gia đình đối với cha mẹ, đó cũng là cách báo đền kính hiếu cha mẹ vậy.

Việc kính hiếu đối với cha mẹ từ xưa đến nay rất nhiều, riêng đối với Đức Khổng Tử chú trọng dạy con người, trước nhứt phải đạt được chữ Nhân nghĩa là con người phải có lòng thành thật, nhân hậu đối với những người thân cận chung quanh mình, ví như cha mẹ, anh chị em, rồi kế đến họ hàng thân tộc, bạn bè, sau cùng là trong thiên hạ. Nếu đối với cha mẹ mà chúng ta không biết kính hiếu, đối với với anh chị em không thuận hòa thì không thể nói đó là người có lòng nhân và thành thật được. Đối với cha mẹ, chúng ta phải thương và kính, bởi vì : thương mà không kính, thì không thể gọi là hiếu đạo được. Sách Luận Ngữ, Vi Chính II, kể lại câu chuyện như sau : Một hôm người học trò Tử Du hỏi Khổng Tử về chữ Hiếu. Khổng Tử đáp : Có người nói Hiếu là nuôi dưỡng cha mẹ, nhưng nếu nuôi mà không Kính, thì có khác gì nuôi súc vật, lấy gì để phân biệt. Như vậy, nuôi dưỡng cha mẹ phải cung kính, dầu ăn cơm hẩm, uống nước lã, nhưng cha mẹ vẫn vui lòng. Lúc cha mẹ còn sanh tiền, con nên sống gần gũi cha mẹ để săn sóc lo ăn uống cũng như thuốc thang mỗi khi cha em đau ốm, cho nên con không được đi xa, bởi câu : "Phụ mẫu tồn, tử bất khả viễn du" (Cha mẹ còn, con không được đi xa). Ngoài ra, trong thành ngữ cũng có câu : "Con đâu, cha mẹ đó". Trường hợp con bắt buộc phải đi xa, thì nên cho cha mẹ biết thời gian, nơi chốn rõ ràng để cha mẹ an tâm, khỏi trông lo, bởi câu : "Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương" (Luận Ngữ, Lý Nhân IV). Việc hiếu đạo tức phải có Lễ Nghĩa. Lễ là theo cái Lý phải. Nghĩa la theo cái Đức phải. Nói rõ hơn, việc kính hiếu cha mẹ không có nghĩa là lúc nào cha mẹ làm điều sai trái, người con cũng phải nghe theo. Nhưng bổn phận con phải biết ngăn cản cha mẹ làm việc sai trái, xấu xa, nếu cha mẹ cứ khư khư tiếp tục làm sai trái không nghe theo, thì bổn phận con phải lựa lời nhã nhặn, từ tốn ôn hòa, rồi từ từ phân tách lẽ phải trái, bẩm thưa nhiều lần, để ngỏ hầu cha mẹ biết kịp mà tránh. Do vậy, nếu cha mẹ biểu làm điều sai trái, xấu xa mà con cứ nhắm mắt làm theo ý cha mẹ, thì con cũng phạm tội bất hiếu như thường : "Phụ hữu trách tử tức thân bất hảm ư bất nghĩa, đương bất nghĩa tắc trách chi. Tùng phụ lệnh an đắc vi hiếu". Vì thế, con luôn luôn phải biết giữ gìn danh giá, tiết nghĩa cho cha mẹ, bằng cách nghe lời dạy bảo những điều hay lẽ phải của cha mẹ và cản ngăn cha mẹ làm những điều sai trái, xấu xa, như vậy con mới được xem là giữ tròn hiếu đạo. Ngoài ra, con có hiếu còn phải tiếp nối chí khí, hành động, việc làm tốt của cha mẹ đã làm, chứ đừng nhắm mắt làm càn, không chịu suy nghĩ tận tường : "Phù hiếu giả thiện kế nhân chi chí, thiện thuật nhân chi sự giả gia" (Trung Dung). Khi cha mẹ mãn phần, Đức Không Tử cũng dặn dò người con nên chú trọng đến việc thờ cúng cha mẹ, tổ tiên. Hơn nữa, con có hiếu là người còn phải kết kính trọng những người mà cha mẹ tôn trọng và yêu thương những người mà cha mẹ mến thương nữa. Do vậy, người con trước sau phải một lòng tôn kính, thương tưởng cha mẹ khi còn sanh tiền hay đã mất : "Kính kỳ sở tồn, ái kỳ sở thân, sự tử như sanh, sự vong như sự tồn (Trung Dung).. Một người con có hiếu, còn phải biết đến tuổi thọ của cha mẹ để hân hoan vui mừng khi thấy hằng năm cha mẹ tăng thêm một tuổi thọ, được sống lâu với con cháu và lo âu khi thấy sức khỏe cha mẹ càng ngày càng già yếu. Đến khi cha mẹ quá vãng, người con kính hiếu cha mẹ cũng nên nhớ ngày giổ kỵ để cúng kiến cho cha mẹ thật cho đáo. Trên đây, là những đơn cử, trích dẫn về quan niệm chữ hiếu đối với cha mẹ do Đức Khổng Phu Tử đề ra.
Được biết, Đức Khổng Phu Tử sanh vào mùa Đông tháng 10 năm Canh Tuất, năm thứ 21 đời vua Linh Vương nhà Chu tức năm 551 trước Tây Lịch, con của ông Thúc Lương Ngột và bà Nhan Thị, Ông mất vào năm 497, thọ được 72 tuổi, mộ chôn tại Khổng Lâm, cách huyện Khúc Phụ, thuộc tỉnh Sơn Đông 2 dậm . Đức Khổng Phu Tử quả là một nhà nhân bản, một bậc thầy vĩ đại của lịch sử Trung Hoa. Trong các tác phẩm của ông và các môn đệ như : Nhan Hồi, Tăng Tử, Tử Lộ, Mạnh Tử... gồm có : Ngũ Kinh là Kinh Thi, Kinh Thơ, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu và Tứ Thư là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử... Đức Khổng Phu Tử cũng là nhà tư tưởng Trung Hoa đầu tiên đề cập đến các quan hệ căn bản không những của nền Khổng Học mà cả nền Triết Học Trung Hoa về Tu Thân (Se Perfectionner) - Tề Gia (Diriger la famille) - Trị Quốc (Gouverner un pays) - Bình Thiên Hạ (Pacifier le monde) trong đó có Tam Cang là Quân Thần, Phụ Tử, Phu Phụ và Ngũ Thường là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đối với nam nhi, còn nữ nhi thì phải làm tròn bổn phận Tam Tòng là "Tại gia tùng phu, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử" tức khi người con gái ở nhà cha mẹ phải nghe lời cha, khi lấy chồng thì phải theo chồng, khi chồng chết thì phài theo con. Ngoài ra, còn phải gìn giữ tứ đức là Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
Gương kính hiếu cha mẹ rất nhiều trong sách vở như : Nhị Thập Tứ Hiếu, Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên...Đặc biệt, trong Tứ Thư (Luận ngữ, Mạnh Tử) cũng có nói về vua Thuấn là người con chí hiếu, đáng cho chúng ta suy ngẫm. Vạn Chương, đệ tử của Mạnh Tử, có hỏi Mạnh Tử: Không hiểu tại sao khi ông Thuấn còn cày ruộng tại núi Lịch , thường ngó lên trời mà kêu gào khóc lóc như vậy? Mạnh Tử đáp : Ông Thuấn có lòng thán oán và luyến mộ. Phàm làm con, được cha mẹ có thương thì con vui mừng và chẳng hề quên ơn cha mẹ. Nhưng cha mẹ có ghét thì người con làm lụng cực nhọc cha mẹ và chẳng hề than oán. Vậy, tại sao ông Thuấn thán oán cha mẹ? Ông Công Minh Cao (môn đệ của Tăng Tử) cho rằng : tấm lòng của người con hiếu thảo chưa dứt sầu khổ nếu chẳng được tình thương của cha mẹ, cho nên ông Thuấn mới than! Ta đem hết sức mình ra cày ruộng, đó chẳng qua là làm tròn bổn phận làm con mà thôi, còn cha mẹ chẳng thương ta, ta có lỗi ở chỗ nào? Trong khi ông Thuấn làm lụng vất vả ở giữa đồng ruộng, nơi núi Lịch, thì vua Nghiêu sai con mình 9 trai 2 gái và bá quan phụng sự ông Thuấn, rồi lại cấp cho đủ thứ như bò trừu, kho lẫm. Kế đến, các nhà trí thức trong thiên hạ lại kéo nhau theo ông Thuấn rất đông, thế rồi ban đầu vua Nghiêu lập ông Thuấn lên cai trị với vua Nghiêu, để về sau nhường ngôi lại cho ông. Ông Thuấn dầu được cầm quyền nhiếp chánh và làm vua, nhưng vì chẳng được hòa thuận với cha mẹ, ông Thuấn tự coi mình như kẻ khốn khổ chẳng biết nương tựa vào ai. Ông Thuấn được các nhà trí thức trong thiên hạ hoan nghinh và quí phục, đó là ý muốn của mọi người, thế mà ông Thuấn chẳng đủ giải mối ưu sầu của ông. Hơn nữa, ông Thuấn lại còn được người đẹp hầu hạ bên ông, đó là sở dục của mọi người, sự giàu có bậc nhứt là làm thiên tử gồm cả thiên hạ mà chẳng đủ giải mối ưu sầu của ông. Duy chỉ có sự hoà thuận với cha mẹ mớí có thể giải được mối ưu sầu này. Bực đại hiếu trọn đời lúc nào cũng luyến mộ cha mẹ như lúc còn ấu thơ, chỉ thấy gương ở vua đại Thuấn mà thôi. 

Một hôm về thăm nhà, cha mẹ sai sửa lẫm lúa, khi ông ở trên nóc nhà bị rút cây thang, rồi cha là ông Cổ Tẩu liền đốt lẫm lúa, ông Thuấn nhờ cặp nách hai cái sàng tre mà bay xuống được bình an. Một lần khác, cha mẹ lại sai ông đào giếng, khi ông đào tới đáy giếng, thì ông cũng bị ông Cổ Tẩu cùng với ông Tượng là em cùng cha khác mẹ liền lấp đất lại. Nhưng ông Thuấn đã đào sẵn một đường ngách để phòng thủ, cho nên ông theo đường ngách để lên khỏi giếng. Tưởng rằng, ông Thuấn đã chết, ông Tượng bèn hô lên : "Mưu lấp giếng để chôn sống vị đô quân (ông Thuấn được thay quyền vua tại đô thành) hoàn toàn do nơi công của ta. Từ đấy bò và trừu của anh Thuấn, ta sẽ giao cho cha mẹ ta, kho lẫm của anh sẽ thuộc về ta, đồ binh khí như can và qua về phần ta, đờn cầm, cây cung có chạm cũng về ta, hai bà chị dâu sẽ dọn giường cho ta... Rồi ông Tượng bèn đi vào cung vua, thì thấy ông Thuấn đang ngồi trên giường mà khải đờn cầm, khi đó vua Thuấn nói : này bá quan và thứ dân của anh, anh sẽ giao cho em cai trị giúp anh, khi đó ông Tượng mới xấu hổ thẹn đỏ cả mặt. 

Ngoài ra, chỗ chí hiếu của người con như ông Thuấn không chỉ lớn bằng làm cho cha mẹ được tôn trọng, mà còn cha mẹ được hưởng nhiều hoa lợi, bởi vì ông Thuấn được làm vua, đương nhiên ông Cổ Tẩu là cha của thiên tử tức là ông Thuấn đã làm cho cha mẹ được tôn trọng, cao quý vậy và đem hoa lợi trong thiên hạ để phụng dưỡng cha mẹ. Đó chính là ông Thuấn đã dày công báo đáp ơn sanh dưỡng của cha mẹ.
Trong Kinh Thi, Thiên Đại Nhã có chép : "Làm con lúc nào cũng nên nghĩ đến hiếu đạo đối với cha mẹ", nhờ vậy làm giềng mối cho hậu thế, tức con cháu noi gương theo. Ngoài ra, trong Kinh Thơ còn ghi : "Vua Thuấn thờ cha là ông Cổ Tẩu rất kính, mỗi khi đến viếng thăm cha thì rụt rè, nễ sợ. Vì thế, ông Cổ Tẩu mới lần hồi được cảm hóa để trở nên hòa thuận với ông Thuấn là con ruột của mình". Đối với vua Thuấn, quan niệm ở trên đời là cha mẹ trước nhứt, bất cứ việc gì cũng phải làm cho cha mẹ vui lòng, để cha mẹ thuận hoà, thương yêu với con. Nếu người con làm cho cha mẹ buồn phiền, thì dẫu người con đó làm vua và được mọi người trong thiên hạ kính nể, ngưỡng mộ và hết lòng sủng ái, vua Thuấn không xem quan trọng bằng cha mẹ. Hành động thờ kính cha mẹ của vua Thuấn, chỉ có vua Thuấn làm được mà thôi. Bởi thế cho nên người đời khen vua Thuấn là bậc đại hiếu trong thiên hạ vậy... (Mạnh Tử).
Riêng về báo hiếu theo Phật Giáo, Đức Phật thường đề cặp đến chữ hiếu nhiều nhứt trong các kinh như : Vu Lan, Lễ Lục Phụng, Phân Biệt, Tăng Chi, Bảo Tạng... Đức Phật dạy cho chúng sanh rất rõ ràng về công ơn sanh thành dưỡng dục sâu dầy, to lớn của cha mẹ, người con phải có bổn phận phụng dưỡng về vật chất lẫn tinh thần, bằng chứng là trong kinh Lễ Lục Phụng, đã chỉ dạy người con phải có bổn phận vơí cha mẹ được tóm lược như sau : Vâng lời và giúp đỡ cha mẹ, chăm học, siêng làm, giữ gìn gia phong và danh dự gia đình, bảo vệ tài sản, khích lệ cha mẹ làm việc thiện, tu theo đạo giải thoát để khỏi khổ về sau, lúc cha mẹ già phải phụng dưỡng, đến khi cha mẹ mất, đám tang nên theo phong tục và hoàn cảnh... Ngoài ra, trong kinh Nhẫn Nhục, Đức Phật dạy rằng : "Tất cả các điều thiện, không có gì cao hơn là có hiếu, tất cả các điều ác tệ nhứt là bất hiếu".Bởi vì, công ơn cha mẹ quá cao dày, to lớn đến nỗi như thế, nếu có người con vai mặt công cha, vai trái cõng mẹ để đi khắp cả đại địa sơn hà, rồi đấm bớp hầu hạ suốt đời, đôi lúc cha mẹ còn đại tiểu trên vai mà không chút than phiền cũng chưa đủ để đền đáp công ơn cha mẹ (Kinh Tăng Chi). Kinh này viết tiếp, người con đền đáp công ơn cha mẹ chỉ bằng cách cung phụng đủ thứ vật chất hay tiền bạc cũng chưa đủ để báo đền ơn sanh thành dưỡng dục.Ngoài ra, người con cũng nên khuyên cha mẹ tu hạnh bố thí, nếu được cha mẹ đồng ý chấp thuận, thì người con xem như trọn vẹn việc hiếu đạo đối với cha mẹ.

Trong kinh Vu Lan mô tả quả nghiệp của mẹ ngài Mục Kiền Liên bi đoạ dày vào ngạ quỷ, vì lúc sanh tiền bà quá bỏn xẻn, tham lam. Mặc dù ngài Mục Kiền Liên đã chứng được thần thông, thấy suốt ba cõi, nhưng ngài cũng không thể tự mình cứu mẹ ra khỏi chốn âm cung, mà phải nhờ sức chú nguyện của chư tăng thập phương, nhân ngày lễ Vu Lan tự tứ. Noi gương ngài Mục Kiền Liên, người phật tử dầu bận rộn trăm bề, nhưng đến ngày lễ Vu Lan báo hiếu cũng về chùa để tụng kinh, bái sám để cầu cho những người thân, nhứt là những người đã có cha mẹ quá vãng được sớm siêu thoát tịnh độ. Trường hợp, nếu chúng ta có cơ hội kính hiếu mà không thực hiện được hoặc không xem việc kính hiếu là quan trọng hàng đầu hay đôi khi còn đối xử với cha mẹ một cách tệ bạc, vì nghĩ rằng bổn phận của cha mẹ là phải lo cho chúng ta suốt đời. Nếu cha mẹ vì nghèo khó mà khinh khi hoặc đôi khi buông lời trách phiền cha mẹ không cho tiền của để chúng ta có được sống sung sướng suốt đời... Chúng ta đừng quên rằng : "Không có cha mẹ sanh thành thành dưỡng dục thì không có chúng ta trên cõi đời này" để rồi không lo kính hiếu cha mẹ, đôi khi chúng ta giàu có lại hành động bất kính hiếu đối với cha mẹ lúc tuổi già, vì tập tánh : "Con đóng khố, bố cỡi truồng" (thành ngữ) thì tội nghiệp cho cha mẹ vô cùng. Bởi vậy, một khi chúng ta đã trở thành bậc làm cha mẹ, mới hiểu được công ơn cha mẹ, đúng với câu : Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân (Đức Khổng Tử) tức nuôi con mới biết được công ơn của cha mẹ. 

Và một khi chúng ta mất dịp kính hiếu với cha mẹ, thì sẽ phải hối hận như thầy Tử Lộ, bởi vì khi thầy Tử Lộ đã thành công trong sự nghiệp, muốn nuôi dưỡng thì cha mẹ không còn nữa, cho nên khi cha mẹ còn sống, chúng ta phải tận lực phụng dưỡng cha mẹ, thì mới có ý nghĩa đáng quý và khi cha mẹ theo ông bà, phải có bổn phận lo mồ mả, cúng kiến để vong linh cha mẹ được sớm vãng sanh về cảnh giới an lành.
Đó là bổn phận của người con đối với cha mẹ phải biết kính hiếu thật đúng nghĩa vậy.

Mùa Vu Lan Báo Hiếu 2007 Đinh Hợi
 
HÀN LÂM NGUYỄN PHÚ THỨ


CÁCH BÁO HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT

Công ơn nuôi dưỡng cha mẹ thật như trời cao biển rộng khó nghĩ tận cùng. Đạo Nho đã nói: "Công ơn cha mẹ trời cao khó kịp". Kẻ làm con dĩ nhiên phải nghĩ đến cách báo đáp công ơn sanh thành của cha mẹ, vì đây là một bổn phận cao quý trong đạo làm người; bất luận thời nào hoặc phương sở nào cũng không thể xao lãng đi được.

Nếu có người nương nhờ ơn cha mẹ mà đến ngày công thành danh toại, lại chỉ biết có một mình mình chứ không đoái hoài gì đến cha mẹ, xem cha mẹ như người khách lạ qua đường... Nếu có người con như thế dĩ nhiên gọi là người con bất hiếu, đã trốn tránh bổn phận thiêng liêng vậy.

Song sự báo ơn cha mẹ có rất nhiều cách, nó không thể giống nhau theo một quy tắc, thể thức nhất định làm cho cha mẹ nhẹ bớt thống khổ, tăng thêm vui lành... Có người báo ơn cha mẹ bằng cách làm cho cha mẹ an hưởng thứ vui tinh thần khoan khóai hoặc hưởng cái vui ngắn ngủi, vui lâu dài, vui nặng nề hay vui siêu thoát. Tóm lại, đàng nào cũng gọi là hiếu, đàng nào cũng tìm cách đem lại sự an vui cho cha mẹ, nhưng xét kỹ thì chỉ có cách đem lại cho cha mẹ sự an vui siêu thoát đời đời mới thật hoàn toàn đạt thấu mục đích báo hiếu mà thôi.

Kinh Vu Lan Bồn chính là một kinh Phật dạy chúng ta cách báo hiếu ấy, báo hiếu chính đáng, cứu độ viên mãn để các tiền nhân nhẹ gánh oan khiên, lần thoát vòng luân hồi đau khổ. Chúng ta không thể không hiểu qua đại ý của kinh trong khi chúng ta muốn tìm một phương pháp chơn chán để báo bổ thâm ân.

Trong kinh Vu Lan, Phật dạy cho chúng ta rõ:

1. Có nhân thì có quả

Nhân quả là một định luật hiển nhiên không thể nào sai chạy được. Ở nơi hoàn cảnh cũng như ở nơi thân tâm, hễ đã gây nhân gì thì tất nhiên có quả báo nấy để thù đáp lại, tuy vô hình nhưng rất bình đẳng, không bao giờ gây nhân lành mà phải chịu quả báo khổ, cũng không bao giờ gây nhân dữ mà được hưởng quả báo vui. Bởi vậy, bà mẹ Tôn giả Mục-kiên-liên sau khi đã sanh tâm tham lam bỏn xẻn mà gây nghiệp nhân không tốt đến lâm chung phải chịu quả báo đoạ đày trong đường ngạ quỷ, đói khát ốm gầy, đến nỗi gặp đặng bát cơm của Tôn giả Mục-kiền-liên dâng cúng, nhưng vì nghiệp tham của bà quá nặng mà cơm kia bỗng biến thành lửa đỏ cháy hừng không thể nào ăn được.

2. Nhân quả đều do tâm

Tuy vậy nhưng không phải: "một kiếp lỗi lầm là muôn đời đau khổ". Trong kinh có dạy: "Tâm năng sanh nhứt thiết pháp", vậy biết rằng tất cả pháp đều do tâm. Tâm tạo nên nghiệp lành, hiện thành cảnh giới chư Thiên tốt đẹp, tâm tạo nên nghiệp dữ hiện thành cảnh giới địa ngục xấu xa, tâm tu theo đạo Bồ-đề, gây nhân giải thoát thì được tự tại yên vui ngoài vòng luân hồi sanh tử, vậy nên mặc dù chúng sinh ở trong hoàn cảnh tuy khổ cực cũng có thể hoán cải tâm niệm mình theo con đường chánh đáng tốt lành. Khi tâm đã tốt thì cảnh giới cũng tùy tâm mà trở nên vui đẹp. Cứ xét ngay nơi tâm niệm hiện tại của chúng ta thấy rõ. Khi tâm ta nghi ngờ độc ác thì cảnh vật nào cũng là cảnh vật khả ố xấu xa. Khi tâm ta hiền rộng rãi thì cảnh vật nào cũng đẹp đẽ vui tươi. Địa ngục thiên đàng nào phải ở đâu xa lạ!

Do lẽ đó mà bà mẹ Tôn giả Muc-kiền-liên tuy đã sanh vào ngạ quỷ cũng có thể chuyển đổi tâm niệm nghiệp nhân, đặng giải thoát khỏi chỗ tối tăm cực khổ.

3. Hiệu lực của chú nguyện

Chúng ta đã biết địa ngục, thiên đàng cũng chỉ tự mình tạo ra và chịu lấy, kẻ làm con nếu muốn cho cha mẹ mình khỏi lâm vào cảnh tương lai đau khổ, thì không chi bằng cố gắng làm cho cha mẹ bỏ ác làm lành, cải tà quy chánh dù cho cha mẹ đã qua đời cũng có cách báo đáp hoàn toàn được.

Phật dạy tất cả sự vật trùng trùng duyên nhau mà phát hiệ,n nên tâm niệm của chúng ta cũng trùng khắp và duyên cùng cả vũ trụ không khác nào một làn sóng nhỏ cũng lan khắp cả đại dương, như ánh sáng của vì sao cũng chiếu cùng quả đất. Bởi vậy, tiền nhân xa cách đến đâu chúng ta cũng có thể đem tâm niệm đại hiếu, tu hành mà cảm thông và thay chuyển. Chỉ sợ rằng sức tu hành của chúng ta kém cỏi, định lực không bao nhiêu, tợ hồ như ánh sáng của một vì sao nhỏ, làm sao thay đổi cho một cảnh vật càng thêm tươi sáng?! Chúng ta không thể không nhờ đến định lực của nhiều vị tu hành tinh tấn, chú nguyện cho mới mong thay đổi dễ dàng thân tâm cùng cảnh giới nơi mỗi người. Các vị tu hành tinh tấn ấy phần nhiều là chúng Tăng chuyên tu trong ba tháng hạ.

Xưa kia Tôn giả Mục-kiền-liên tuy tu hành chứng đến lục thông, nhưng với đạo lực một mình vẫn không sao cứu vớt từ mẫu, đã phải nhờ đến sức chú nguyện của mười phương Tăng trong ngày Tự tứ mà mẹ của Tôn giả liền thoát khỏi vòng ngạ quỷ, hóa sanh cảnh giới chư Thiên an lạc.


*****

Ngày nay, chúng ta nếu muốn báo hiếu đối với tiền nhân một cách viên mãn, trước hết chúng ta nên tin tưởng vào ba điều đã lược nói ở trên. Chúng ta tin rằng cảnh khổ vui đều do tâm niệm và tâm niệm có thể thay đổi, xấu trở nên tốt một cách dễ dàng, khi nhờ có sức chú tâm của nhiều vị tu hành có định lực. Chúng ta cũng thường thấy các nhà thôi miên học chỉ gia công tập luyện và tập trung tư tưởng đôi phần mà họ có thể sai sử kẻ đối phương hành động theo ý chí của họ. Nếu với các bậc tu hành, có một tâm hồn thanh tịnh, có định lực mạnh mẽ thì chắc hiệu lực sẽ tăng lên bội phần, và với các đấng Giác ngộ thì không thể nào tính lường được.

Chúng ta tin tưởng như thế và chí tâm bố thí cúng dường Tam Bảo, chúng Tăng, làm việc hiếu nghĩa trong ngày Tăng tự tứ (rằm tháng bảy) để cầu mong được mục đích báo hiếu hoàn toàn của kẻ biết làm con.


HT. Thích Thiện Siêu
 
Vu Lan Nhớ Mẹ
--- o0o ---
Kính dâng Mẹ
Mùa thu hiền dịu và thân thương lại trở về với muôn loài cỏ cây vạn vật, mùa thu hắt hiu gợi cho hồn thi nhân nguồn cảm hứng dạt dào bởi những chiếc lá úa vàng rơi, mặt nước hồ thu trong veo, yên bình dễ phản chiếu một bầu trời ảm đạm. Nhưng đối với người con Phật, thì mùa thu là mùa Vu Lan, là mùa báo hiếu.
Kính lạy mẹ,
Nhìn khói hương trầm quyện tỏa giữa ngôi bảo điện trang nghiêm, lòng chúng con thành kính hướng về mẹ, người yêu thương nhất không thể thiếu của đời con.
Mẹ ơi ! tiếng gọi mà từ khi bập bẹ cho đến lúc trưởng thành con vẫn chưa biết hết, hiểu hết ý nghĩa. Mẹ là sự sống, là tình yêu, là bùi, là ngọt, là thơm, là ngon, là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời. Đúng như vậy, Mẹ là tất cả những gì thiêng liêng nhất và cao quý nhất của đời con :
Mẹ là cả một trời thương
Mẹ là cả một thiên đường trần gian
Tiếng ru mẹ ấm vô vàn
Nuôi con trong tiếng tơ đàn văn chương.

Khi con khát, giòng sữa mẹ ngọt ngào thấm vào lòng con như vị ngọt ngào của nước cam lồ. Khi con biết ăn, mẹ là người đầu tiên móm cho con từng miếng cháo, muỗng cơm, mẹ ấp yêu nâng niu, chìu chuộng. Tất cả những gì ngon nhất, vui nhất và tốt đẹp nhất mẹ đều dành cho con :
Mẹ cho con tất cả
Hết quảng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh
Mẹ là gió mát tinh anh
Là cây tiên dịu, là cành thùy dương
Mẹ là hoa, mẹ là hương
Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu...

Mẹ đã ru cho con ngủ bằng tiếng hát dịu hiền êm ả :
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy mẹ thức đủ vừa năm.

Tất cả mẹ đều dành cho con, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn. Mẹ đã trằn trọc năm canh dài cũng vì sự ấm no, lớn khôn và hạnh phúc cho đời con. Bầu trời trong mắt con ngày một trong xanh hơn với những ước vọng vào đời, là khi tóc mẹ ngày thêm một sợi bạc :
Ôi ! Chiếc lưng của mẹ
Đã còm bởi thương đau
Ôi ! cuộc đời của mẹ
Trăm năm nối chuyện sầu.

Vì con, niềm lo âu của mẹ trở thành hiển nhiên như mặt đất truyền sức sống cho cỏ cây vạn vật. Mẹ chưa đủ sống trăm năm nhưng đã cho con đầy đủ tình thương và hạnh phúc, sung sướng biết bao .
Một đời vốn liếng mẹ trao
Mẹ cho tất cả mẹ nào giữ riêng
Mẹ hiền như một bà tiên
Mẹ theo con suốt hành trình con đi.

Mẹ ! Mẹ là nguồn thắp sáng cho đời con bằng máu và con tim của chính mẹ, mẹ là bóng mát trên cao, là ánh sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối. Nếu đời là một bể khổ mênh mông, với muôn ngàn đợt sóng dồn dập, thì mẹ là chiếc bè đưa con đến bến bờ hạnh phúc. Còn mẹ là còn tất cả, mất mẹ là mất hết tất cả.
Mẹ ! Mẹ vất vả mà chẳng nề gian khổ, mẹ trăm tuổi còn thương con tám mươi. Hình ảnh người mẹ hiền tần tảo một nắng hai sương lam lũ. Mẹ đã đánh đổi một thời son sắc, tươi vui chỉ vì tương lai của con.
Vì con sức khỏe hao mòn,
Vì con mẹ chẳng phấn son bao giờ.

Mẹ mong mỏi cho con khôn lớn, lập nên sự nghiệp với đời, trở thành người hữu ích cho xã hội :
Đành cực nhọc vẫn nuôi con dại,
Gạt ưu tư dầu dải thu đông,
Nắng xe nám má xuân hồng,
Gót son tố nữ bùn phong kín rồi.

Ôi ! Bút mực ngôn từ nào có thể diễn tả được công ơn bao la trời biển của mẹ :
Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá,
Đựng sao đầy hai tiếng Mẹ ơi !

Mẹ ! Làm sao có thể hình dung được tình mẹ thiêng liêng, làm sao tính kể hết được công ơn sanh thành dưỡng dục. Tình thương của mẹ mênh mông như trời biển, mát ngọt như nguồn suối vi diệu. Tình thương và công ơn của mẹ đã thấm vào lòng con, từ khi mới cất tiếng khóc chào đời và con chỉ nhận biết khi ý thức được bổn phận làm người.
Ờ nhỉ ! Sao có những người không giữ tròn hiếu hạnh. Trong khế kinh Phật từng dạy rằng " Không có cha mẹ ta, thì sẽ không có hình hài của ta. Cha mẹ đã tạo cho ta cái thân thể này "
Có ông bà mới có ta
Ông bà là gốc, mẹ cha là cành
Thân ta như thể lá xanh
Nhờ gốc vun bón, nhờ cành chở che.

Trong đời cũng có lúc nào đó, con đã làm buồn lòng mẹ. Giờ đây, chúng con mới biết, trên đời vai gầy guộc của mẹ, trĩu nặng nỗi nhọc nhằn và lo toan trong cuộc sống, lòng mẹ lại buồn phiền vì con trái nghịch. Con có biết đâu thời gian, nỗi nhọc nhằn, và phiền muộn ấy đã, đang và sẽ cướp mất kho tàng quý báu của đời con. Người mẹ hiền yêu dấu của chúng con, buồn thay đến một ngày nào đó trong đời :
Nhìn vào đêm tối mông lung,
Khát khao tìm lại hình dung mẹ hiền,
Một trời thương nhớ xây thành,
Mây buồn tóc rối giữa vành tang thương
Cánh chim bàng bạc kêu sương,
Đóa hồng rủ cánh lòng vương vấn sầu.

Mẹ ! Giờ đây con muốn trở về bên mẹ, để nhìn sâu vào mắt mẹ, con sẽ nhìn thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ, để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên con, con sẽ hôn lên gò má nhăn nheo của mẹ, áp mặt vào đôi bàn tay gầy guộc của mẹ đã hằng dệt yêu thương, để tỏ lòng tri ân và nhận sự trìu mến ân cần, chở che của mẹ. Mẹ và con sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt.
Nếu nghĩa mẹ ví như giòng suối dịu mát, ngọt ngào, thì công cha cao lớn hơn, bền chắc vĩnh cữu hơn như trái núi Thái Sơn, lời ca dao ví von cũng là lời tự tình của người con đối với cha mẹ ngày xưa và mãi mãi cho đến ngàn sau :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ Mẹ kính Cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Ngày nay chúng ta có được duyên lành gần gũi với Phật Pháp, gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên đã soi tỏ lời vàng của Chư Phật, con sẽ nguyện giữ mãi trong lòng," sinh ra thời không có Phật, thờ kính Cha Mẹ là thờ kính Phật vậy".
Công ơn cha mẹ tựa biển trời
Làm sao báo hiếu hởi người ơi ?
Nếu chưa báo hiếu đừng bất hiếu
Bất hiếu làm ta khổ muôn đời.




Cha Mẹ ơi,
Dòng cảm niệm sẽ trôi theo thời gian, nhưng ý thức hiếu hạnh sẽ còn mãi mãi với lòng người, mai này con có lớn khôn, rời khỏi vòng tay của người mẹ hiền, thì mãi mãi vẫn là bóng cây che mát cho đời con. Sung sướng biết bao khi chúng ta xếp lại mối lo âu toan tính, để lại thú vui của cuộc đời, quay về bên mẹ, sống với mẹ để nghe nói những lời yêu thương dịu ngọt, được bàn tay mẹ vỗ về, trìu mến, con sung sướng gục đầu vào lòng mẹ, để tìm lại hơi ấm của ngày xưa, để được thấy mình trở thành trẻ thơ bé bỏng bên mẹ.
Cha Mẹ ơi ! Đây là tấm lòng của chúng con, đóa hoa hồng tươi thắm và món quà hiếu hạnh, chúng con thành kính dâng lên Cha Mẹ, bằng tất cả những con tim và bằng tất cả những tấm lòng của chúng con nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
Mùa Vu Lan báo hiếu: Nước mắt chảy lên thật là khó!


Nhiều người cho rằng ca dao Việt Nam và cả thơ nữa, thường nói về mẹ nhiều hơn cha. Sự thật là như vậy mặc dù mỗi người chúng ta đều kính yêu hai đấng sinh thành như nhau. Người Việt Nam nào cũng coi đó là chữ Hiếu. Chữ Hiếu cũng là đạo Hiếu.

Ca dao của ta cũng có dành phần tình cảm trân trọng, sâu sắc với cha đấy chứ, chỉ ít hơn mẹ về số câu mà thôi. Chẳng hạn mấy câu quen thuộc sau đây đều nói chung về song thân:

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi!

Lụt nguồn trôi trái bòn bon,
Cha mất mẹ còn chịu chữ mồ côi.

Còn cha gót đỏ như son
Một mai cha mất gót con lấm sình (bùn)

Mồ côi cha ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ lót lá nằm đường …
Ông cha còn có một vị trí hết sức quan trọng được khẳng định trong câu cách ngôn: “Con có cha như nhà có nóc”.
(…)
Ca dao, thơ, nhạc về mẹ có hàng trăm bài hay và cảm động , không thể kể hết. Chẳng những các tác giả của ca dao, thơ, nhạc mà người con nào cũng “nói” về mẹ nhiều hơn cha dù chữ Hiếu đối với cha mẹ vẫn sâu nặng ngang nhau. Điều này nghiệm ra cũng có lý do để chúng ta thường nói nhiều về mẹ. Trước hết, ngoài lẽ thiêng liêng của tình mẫu tử còn vì một liên quan máu thịt thực sự giữa mẹ và con. Mọi người con, khi còn là một thai nhi đều nối liền với thân thể mẹ bằng một cuống nhau. Sự liên quan này là một thực thể tuyệt đối. Thai nhi mỗi ngày mỗi lớn bằng cách “ăn bớt” những phần dinh dưỡng tốt nhất của cơ thể mẹ. Không ít bà mẹ nghèo vì chịu sự san sẻ này cho đứa con còn trong bụng mà cơ thể bị suy kiệt.
Hơn chín tháng trời, mẹ còn phải chịu đựng sự quậy, đạp rất vô tư hàng phút, hàng giờ của thai nhi. Mẹ đã yêu thương và cam chịu đau đớn ngay khi chúng ta còn chưa chào đời.
Qua thời gian mang nặng đẻ đau, mẹ phải trực tiếp chăm sóc, nuôi nấng con, nhịn ăn, nhịn mặc, chịu khó, chịu khổ, lo lắng từng giấc ngủ, cơn đau của con…
Cứ thế, mẹ cùng cha dưỡng dục con cho đến lúc trưởng thành, học hành đỗ đạt rồi như con chim đã đủ ***g vững cánh để bay xa. Sự chia ly ấy là vết đau trong lòng cha mẹ nhưng hai người đều mong và chấp nhận như thế để con được thành nhân, thành danh.
Nói nhiều về mẹ bởi những lý do trên, nhưng đạo Hiếu là dành cho cả cha lẫn mẹ. Mùa Vu Lan báo hiếu nếu chỉ dành cho mẹ là thiếu mất một nửa.
Tuy nhiên, dù có lòng hiếu thảo đến đâu, đa số người con vẫn không thể làm tròn chữ Hiếu với hai đấng sinh thành, vì:
- Thời ta còn nhỏ dại thì cha mẹ chịu vô vàn cơ cực để nuôi dạy ta.
- Khi ta trưởng thành, đã làm ra của cải vật chất thì cha mẹ đã già rồi, không còn hưởng được những “hiếu phẩm” của con cái cung phụng nữa!
- Vì cuộc sống, nhiều người con phải xa nhà nên chuyện “sớm thăm tối viếng” cũng rất hạn chế…
Dân gian ta từ xưa đã có câu “nước mắt chảy xuống” hàm ý rằng cha mẹ dành hết tình thương cho con chứ con không thể nào đền đáp công ơn cha mẹ đúng theo tâm nguyện, mặc dù không có bậc cha mẹ nào đòi hỏi điều ấy.
Muốn “nước mắt chảy lên” thật là khó!
Mọi người sớm hay muộn cũng đều có cha mẹ già, lần lượt tất cả chúng ta cũng thành những kẻ mồ côi. Vòng nhân sinh cứ thế mà tiếp nối để rồi ai ai cũng có lúc:

Ngó lên nhang tắt, đèn mờ
Muốn nuôi cha mẹ bây giờ còn đâu!

Mùa Vu Lan Báo Hiếu



Mỗi người chúng ta được ở trên quả đất này là nhờ công sanh ra và công dưỡng dục của cha mẹ.
Trong dân gian VN có những câu ca dao bất hủ như:
Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ Mẹ kính Cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con...
Từ xa xưa, từ thời tổ tiên cho đến ngày hôm nay, từ chốn quê đến thành thị, bổn phận làm con là phải biết yêu thương, kính hiếu cha mẹ.
Từ tạo thiên lập địa, chúng ta đã thấy Dương Âm tức là Trời Đất, người Cha tức Dương và người Mẹ tức Âm, chẳng khác nào ban ngày và ban đêm, nếu không có “Mẹ sanh, Cha dưỡng ” thì chúng ta không có ở cõi đời này.
Ca dao VN cũng có câu:
Có Cha, có Mẹ thì hơn,
Không Cha, không Mẹ như đờn đứt dây.
Câu ca dao này nhắc nhở chúng ta rằng, khi chúng ta được sanh ra cõi đời, mà mất cha lẫn mẹ thì khốn khổ vô cùng. Kể từ cấn thai cho đến ngày sanh nở, người mẹ phải mang nặng cái bào thai suốt chín tháng. Trong chín tháng cưu mang, sức khoẻ của người Mẹ càng ngày tiều tụy, vì ăn uống khó khăn, nôn ụa, rồi ngày tháng trôi qua, đến ngày nở nhụy khai hoa, phải đẻ đau, qua nụ cưòi...lẩn nước mắt. Người Cha, tuy không mang nặng đẻ đau như người mẹ, nhưng luôn luôn ở bên cạnh để nâng đở tinh thần và chia xẻ đớn đau với người mẹ. Ai nấy cũng vui mừng khi thấy việc sanh đẻ được suông sẻ, tốt đẹp, “Mẹ tròn Con vuông”. Đôi khi cũng nguy hiểm đến tánh mạng người mẹ nếu sanh đẻ gặp sự khó khăn.
Khi con lọt lòng mẹ, cha liền đỡ đần mẹ, cha giúp mẹ lo cho con từ tấm tả, từ manh quần tấm áo, pha từng bình sữa, giặt giũ khi mẹ còn yếu sức sau khi sanh nở. Công Cha như vậy đó, công Mẹ như thế nào? Mẹ lúc nào cũng cận kề bên con, nhìn con trìu mến với bầu sữa mẹ, con đang bú ngon lành mỗi khi con khát sữa, trong suốt ba năm nhũ bộ. Mỗi lần con mọc răng, ngứa nướu, con cắn vú mẹ, đau điếng, nhưng mẹ cam chịu đau, mừng thầm và mắng yêu, hôn phớt nhẹ trên tráng con: “Con tôi đã mọc răng sữa rồi, mẹ sẽ mớm cơm cho con ăn” Phương pháp nuôi con khi xưa thì khi con được vài tháng, thì mẹ bắt đầu nấu cháo hoặc nhai cơm cho nhuyễn với chút rau, cá hay thịt, rồi mớm cơm vào miệng cho con ăn. Nước miếng của mẹ hoà cùng với thức ăn biến đổi thành một chất sinh hóa, cho dễ tiêu. Phương pháp xưa không hạp vệ sinh theo đời nay, nhưng nó đượm cả tình thương của mẹ dành cho đứa con. Nhìn cảnh này chẳng khác nào chim mẹ đang nuôi chim con vậy! Tấm tranh tuyệt vời không bút mực nào tả hết được! Công lao của mẹ nuôi con như trên, được dân gian truyền khẩu qua ca dao:
Con mẹ, có thương mẹ thay,
Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau.
Cha mẹ sanh thành tạo hoá,
Nhai cơm, lựa cá, nhai cá lựa xương.
Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.
Hay là:
Đố ai đếm được vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ.
Mẹ lo cho con từ miếng ăn, giấc ngủ, lo lắng khi con mọc răng, ấm đầu... Đêm, mẹ dành nơi khô ráo cho con nằm ngủ:
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.”
Rồi ngày tháng trôi qua, con biết cười, biết lật, biết bò, biết ngồi, biết đi chập chững... hoà với tiếng cười mừng rở của cha mẹ khi thấy mỗi ngày con tiến bộ. Khi con đi học trường mẫu giáo, cha mẹ lo lắng đưa đón con đúng giờ, thật đúng với tục ngữ “ Cha đưa, Mẹ đón”. Tối thì dạy học cho con đánh vần, tập viết, tập đếm...

Công cha đối với con vô bờ bến như mẹ vậy vì cha mẹ mong muốn con sẽ thành người, hữu dụng với họ hàng, gia đình cũng như người ngoài. Lắm lúc cha phải lớn tiếng, la hét cho con sợ tuân lời, bởi vì chỉ có cha, con mới sợ đòn, chịu nghe lời dạy dỗ hơn mẹ, câu tục ngữ thường nói:
Mẹ đánh một trăm (*)
Không bằng cha hăm một tiếng.
(*) một trăm ở đây muốn ám chỉ nói 100 roi!
Hay câu:
Thương con cho roi cho vọt,
Ghét con cho ngọt cho bùi.
Tình thương của cha mẹ dành cho con thật bao la, vô bờ bến, mong mênh...như trời, như biễn cho đến ngày cha mẹ nhẹ bước về cõi Tây phương.
Khi con lớn khôn, công thành danh toại, cha mẹ còn lo dựng vợ gả chồng, rồi chưa hết đâu, có khi còn phải cực khổ với đàn cháu nhỏ, cháu nội, cháu ngoại nữa chứ!
Xét cho kỹ, công lao của cha mẹ đều ngang nhau, cho nên có câu ca dao:
Biết lấy chi đền đáp khó khăn,
Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.
Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, bổn phận làm con, không những kính hiếu dành riêng cho mẹ bằng một cánh hoa hồng hay hoa trắng, mà phải lẫn kính nhớ đến cha nữa. Bởi vì đừng quên:
Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ
Hay là:
Con có mẹ như măng ấp bẹ

hoặc là:
Con có cha như nhà có nóc

hay là:
Còn cha gót đỏ như son,
Đến khi cha chết, gót con đen sì.

Hiện tại có nhiều chùa tổ chức lễ Vu Lan một cách công bằng cho cha mẹ, nghĩa là một đoá hoa hồng cho ai diễm phúc còn mẹ, hay cánh hoa trắng cài lên áo người vô phúc không còn mẹ, còn đối với cha một chiếc nơ màu xanh cho những người nào còn cha hay chiếc nơ trắng cho ai đã mất cha. Đây là một hành động công bằng cho cha lẫn mẹ vào mùa Vu Lan Báo Hiếu, để các con tạ ơn sanh thành dưỡng dục sâu dầy của cha mẹ, nếu cha mẹ còn tại thế. Còn người nào khi cha mẹ đã khuất bóng, thì người con phải có bổn phận lo mồ mả, cung kính nhờ Chư Tăng Ni cúng kiến để tụng kinh nguyện cầu cho hương linh cha mẹ sớm được vãng sanh về cảnh Tịnh Độ.
Về Phật Giáo, Đức Phật Thích Ca thường đề cặp đến chữ hiếu. Chữ hiếu, một pháp hạnhđược đứng hàng đầu trong các kinh. Như kinh Vu Lan, Đức Phật mô tả nghiệp báo của mẹ Ngài Mục Kiền Liên là bà Thanh Đề. Mặc dù Ngài Mục Kiền Liên đã chứng được thần thông, thấy suốt ba cõi, đi xuống tận âm tỳ, nhưng than ôi, Ngài cũng không thể tự mình cứu mẹ, mà phải nhờ sức đầy nghị lực của Chư Tăng sau ba tháng nhập hạ, chú nguyện cầu siêu, nhân ngày lễ Vu Lan Tự Tứ.
Noi gương ngài Mục Kiền Liên, đến ngày lễ Vu Lan, Phật tử thập phương tựu về chùa, để sám hối, tụng kinh để cầu an cho cha mẹ hiện tiền và cầu siêu cho cha mẹ quá vãng. Đấy là bổn phận của người con đối với cha mẹ, đúng với nghĩa Vu Lan Báo Hiếu.

Ngày Vu Lan Báo Hiếu. Canh Dần 2010